Nhật ký Xã hội 2005 <2>

2-6
Mấy ngày hôm nay, bị ám ảnh bởi tin những bức tường ở công viên Hoàng Quốc Việt ở Bắc Ninh chỉ tồn tại đâu có một tiếng đồng hồ sau khi khai mạc rồi.... sụp. Nghe như chuyện hoang đường. Tính ra đây chắc chắn thuộc loại kỷ lục “ ghi - nét “ của quê mình ! Và có lẽ là kỷ lục của thế giới nữa !
Nhìn trên ti - vi, cảnh người ta có thể nhấc lên từng viên gạch từ bức tường dở — vì có xi măng đâu mà kết với chả dính – tôi nhớ tới bao vụ làm ăn vô trách nhiệm khác mà đã nao lòng. Thế nhưng đến lúc nghe người có lỗi trong việc này giải thích rằng vì yêu quê hương quá, nên muốn làm thật nhanh cho kịp khánh thành, thì tự nhiên thấy đắng ngắt cả miệng. Gian dối và khinh thường dư luận đến thế là cùng ! Lúc hoang mang nhất, trong tôi vụt ra cái câu hỏi bi quan “ chúng ta có còn là người nữa không? “, để rồi lại phải cố gạt nó khỏi tâm trí. 

4-6 
Từ xưa người ta đã hay nói rằng khi chất người xuống thấp hẳn chất thú phát triển. Gần đây nhiều người nghĩ lại: không nói vậy được, chính loài thú lại rất trung thực, rất có tình. Tôi cũng thấy thế và chưa biết dùng từ gì. Cho tới hôm qua, đọc được một cách diễn tả mới của một nhà tư tưởng hiện đại. Ông này cho rằng hiện đang phát triển một thứ phẩm chất “ ở bên kia của con người “. Tức là nếu con người nói chung ở về phía này, phát triển theo hướng này, thì họ ( loại người “hiện đại” làm liều nghĩ liều ) ở phía bên kia và cứ ngược mãi về phía bên kia. 
ồ, nghe có vẻ có lý lắm !

5-6
Nghe nói đến việc trẻ em dưới sáu tuổi được phát phiếu khám chữa bệnh miễn phí hẳn ai cũng mừng. Nhưng lạ một cái là ngay ở một phường thuộc trung tâm Hà Nội, cũng chẳng thấy ai đến khám, trong khi đó người ta vẫn đổ đến Bệnh viện Nhi TW để khám mất tiền. Thì ra cái mà người ta sợ nhất là cũng gọi là khám với xét đấy, nhưng chả đâu vào đâu có khi rồi trẻ ốm thêm. Thế thì thà đi đến chỗ mất tiền còn hơn. 
Suy đến cùng, cũng lại chuyện vi phạm chuẩn mực, chỉ có điều ở đây nó dẫn tới việc xói mòn lòng tin. Gay thế đấy ! 



Vứt tiền qua cửa sổ ! 

6-6
Cháy nhà ra mặt chuột. Chính ngay trong đợt nắng nóng khô hạn, thành phố mất điện, nhiều người mới chợt nhận ra lâu nay chúng ta lãng phí kinh khủng. Phòng làm việc các cơ quan, không có người quạt vẫn là quay vù vù. Điện thắp giữa ban ngày. Mùa rét dùng điện để làm khô quần áo. Mùa hè điều hoà phải mở thật mát mới sướng. 

8-6
Trong các đề mục Quốc hội thảo luận kỳ này có vấn đề lãng phí. Một đại biểu, giáo sư tiến sĩ khoa học Nguyễn Ngọc Trân trả lời báo chí: lãng phí bắt nguồn một phần từ sự vô trách nhiệm ; từ sự dốt nát ; chính chế độ bao cấp là mảnh đất màu mỡ cho tham nhũng lãng phí. Rồi cả chuyện chế độ lương không hợp lý nữa chứ, cách trả lương khiến người ta chẳng có gì phải xót xa, có phải của mình đâu mà xót, tội gì không phá. Lại như tệ hội họp lu bù cũng không phải không có liên hệ với cách tiêu tiền văng mạng. Bởi chi cho họp là vô tội vạ, nên nhiều người thích họp để kiếm phong bì, và cấp trên cũng thích triệu tập họp để vỗ béo cấp dưới.
Tôi muốn bổ sung: không nói đâu xa nhìn lại mình và gia đình mình, nhiều người cũng thấy tệ lãng phí đang hoành hành. Như là ai khác đang sống và tiêu pha vô tội vạ, chứ không phải chúng ta, những người vừa trải qua một cuộc chiến tranh khốc liệt, cân muối bao diêm cũng phải mua theo tem phiếu. Nói cho to tát ra, phải chăng đó là căn bệnh thời đại: chúng ta mải miết với những công việc to lớn quá đến mức quên cả cách sống của một người bình thường. Trong một truyện ngắn của Nguyễn Kiên tôi nhớ chi tiết có một ông già hạt tiện quá, đến mức tới nơi họp hành không dám đi đái, chờ trở về nhà mới xả vào thùng gio để có phân bón ruộng. Hồi trước chiến tranh, chỉ lướt qua không để ý, nay nghĩ lại mới thấy lạ. Loại người hạt tiện như vậy bây giờ đã tuyệt chủng. 

9-6 
Nhà nào có ô-sin đều kêu giời về tình trạng bọn ô -sin phá của không tiếc tiền. Có người bảo “Chúng có vất vả làm ra đâu mà biết tiếc “. Người khác bổ sung: “ Sống ở nhà mình thì vậy, chứ về quê, chúng lại hạt tiện ngay “. Người khác cãi: “ Lâu thành thói quen, rồi đến lúc làm chủ gia đình, chúng cũng thói nào tật ấy. Cứ bảo người nghèo hạt tiện, hoá ra không phải. Chính nhiều khi vì nghèo quá, biết có tiết kiệm bao nhiêu cũng vô ích, người ta quay ra sống theo kiểu vén tay áo sô đốt nhà táng giấy“ 

10-6
Có tin ở Cần Thơ, một cổng chào thi công trị giá 1,3 tỉ, từ giờ đến cuối 2005 sẽ xong. Rồi sang năm sẽ phá đi. Vì đã có kế hoạch lập một cảng sông gì đó ở đấy. Hàng ngày có khá nhiều tin bâng quơ như vậy. Xót ruột mãi rồi người nghe cũng đâm trơ, chỉ còn có cách cười khẩy. 



Gần giống như một xã hội 

11-6
Vừa vào mùa thi cử, nhiều người đã lo tới chuyện chống gian lận. Quả nhiên đến những ngày thi, báo chí cho biết chợ phao tràn ngập hàng. Một con số hùng hồn: 400 cân giấy tức là bốn tạ phao đã được phát hiện và bắt giữ tại một khu vực ở Hà Nội có trường thi.
Nhưng cũng có những việc gợi ra suy nghĩ ở một chiều hướng khác: Cùng thi tốt nghiệp THCS, trong khi các tỉnh khác đỗ từ 90% trở lên thì Khánh Hoà đỗ có tới 60%. Không ít người thấy mừng, hoá ra cũng còn những nơi trung thực ( dù là trung thực bất đắc dĩ ! ).Tôi cho rằng Sở giáo dục địa phương phải được biểu dương khen thưởng vì giúp người dân lấy lại niềm tin ở ngành giáo dục.

13-6
Chưa bao giờ những cuộc họp Quốc hội được dân chúng quan tâm nhiều như lúc này. Những buổi chất vấn không mấy dễ chịu. Tình trạng chưa thoả mãn với câu trả lời của Bộ trưởng này Bộ trưởng kia. Đề nghị sớm muộn phải tổ chức bỏ phiếu tín nhiệm với các thành viên của chính phủ. Cả Quốc hội và Chính phủ đều nhận lỗi trước nhân dân … Những chuyện bấy lâu chúng ta chỉ nghe thấy ở nước ngoài, nay cũng là chuyện của nước ta. 
Liên hệ tới một cách nói trong bóng đá. Còn nhớ đầu mùa giải 2003 - 2004, khi Arsenal là một đội bóng thuộc tốp dẫn đầu giải ngoại hạng bóng đá Anh đạt tới “điểm chín “ của phong độ, Thiere Henry, một cầu thủ tự nhận: “Chúng tôi đang gần giống như một đội bóng “. ý cầu thủ này muốn nói: không phải cứ tập hợp 11 cầu thủ ra sân là đã có một tập thể nhất trí. Mà phải có sự tổ chức như thế nào đó, rồi người ta mới có một đội bóng với nghĩa đích thực của chữ ấy.
Theo cách này mà nói, thì xã hội chúng ta cũng đang vận động để trở nên gần giống như một xã hội đích thực.

14-6 
Một người Mỹ, bà M. Ratner ( sang Việt nam với tư cách khách mời của Học viện chính trị quốc gia Hồ Chí Minh ) nói rằng một cuốn tiểu thuyết như Nỗi buồn chiến tranh của Bảo Ninh ( bản tiếng Việt thường gọi là Thân phận của tình yêu ) đã bắc một nhịp cầu thông cảm giữa cựu chiến binh hai nước Việt Nam và Mỹ.
Tại sao như vậy? Theo tôi, cái chính là trong cuốn sách ấy người ta thấy một cuộc chiến tranh và những người lính giống như ở các cuộc chiến tranh khác. Và chúng ta chả có gì khác so với thế giới. 


15-6
Đọc báo, nhất là các báo điện tử (là nơi “đất” viết còn mở ra rất rộng ) thời gian gần đây, tôi thường tìm tới những cuộc trao đổi tập thể: báo này trao đổi về túi ny lông, báo khác yêu cầu bạn đọc phát biểu về quà biếu ( nhận quà biếu trên 500 ngàn phải khai báo ) ; thường xuyên hơn là các ý kiến về tình hình trong giáo dục... Sẽ là quá bốc đồng nếu bảo rằng ở đó có những ý kiến sâu sắc nhưng đọc báo, vẫn thấy thú vị: hoá ra đóng góp vào các vấn đề xã hội là nhu cầu của mỗi người bình thường, chỉ cần có nơi phát biểu là người ta sẽ nói. 


Dẫu sao cũng phải sống !

20-6 
Thời sự ở mọi cơ quan vào những ngày này là chuyện đi nghỉ. Nghe nói ngành du lịch đã lên kế hoạch để quanh năm có lễ hội. Nghỉ ngơi đi với tham quan, học hỏi, trở về cội nguồn,-- tuyệt quá còn gì? Nhưng … ( lại chữ nhưng ): đêm khai mạc lễ hội tỉnh nào cũng giống hệt nhau. Dài dòng lê thê, nặng về khoe thành tích của người đương nắm quyền. Khách sạn bóp khách.Việc tổ chức luộm thuộm đến mức nhiều công ti du lịch phải khuyên khách nước ngoài nên tránh lễ hội. Rút cục chỉ có người mình với nhau.
Vậy mà đã quá tải: có thời điểm ở di tích Phong Nha hàng ngàn du khách mắc cứng trên đường ngoài không vào được, còn bên trong, hàng trăm người không ra được. 
Song không ai dám bỏ. Năm ngoái đi về mệt mỏi, định bụng cạch đến già, nhưng năm nay lại đi. Chán nơi mình ở thì đi du lịch, để rồi du lịch chán quá lại thấy thêm yêu cái nơi mình ở, tình cảm con người cũng thường tít mù vòng quanh theo kiểu đèn cù như... mọi chuyện khác !

22-6 
Mấy năm nay hàng ngày có việc phải đạp xe qua cầu Long Biên, tôi nghĩ phát sợ cho lối làm ăn của dân mình: ngay giữa thủ đô mà còn làm ăn cổ lỗ như thời 1945 về trước. Hì hục cuốc đường lên rồi đổ xuống một lớp nhựa mỏng quẹt. Xe đi dăm bữa nửa tháng, mặt cầu đã biến dạng, chỗ này ổ gà, chỗ kia vũng nước. Đến lúc ấy lại đun những thùng nhựa khét mù để vá víu, thật chẳng khác người xưa vá những chiếc váy đụp. 
Một hai năm lại dỡ ra làm lại. Trong khi đó thì lúc nào cũng thấy nói đã có kế hoạch sử chữa cầu thế này, kế hoạch vay vốn nước ngoài thế kia. Lúc nào cũng như đang làm mà ngoảnh lại thấy hình như không làm gì cả. 

24-6 
Chị Phương bạn tôi đến chơi kể chuyện: Nhà nào có người ốm bây giờ mới thấy khủng khiếp. Nhất là trẻ ốm. Vào Viện nhi, ngạt ngàn là người. Không đủ chỗ khám, phải kê thêm mấy dãy bàn ra sân để bác sĩ. Mồ hôi người nồng nặc đến mức cái khăn mang đi từ nhà, lấy ra lau mặt đã nhiễm ngay mùi viện. Người đi trông bệnh nhân cũng phải khoẻ lắm mới khỏi ốm. Thế nhưng nhỡ ốm ra đấy, đố ai dám không đi viện bao giờ. Các viện đầy mãi người lên.

25-6
Người vợ có chồng ốm sẵn sàng móc ra đồng tiền cuối cùng để nộp các nhân viên y tế. Các bậc phụ huynh có con đi học chỉ thực thở phào yên tâm khi ngày lễ ngày tết trao tận tay thày cô cái phong bì. Ông giáo sư chuyên viết sách giáo khoa cãi bằng được những chỗ sai người ta đã chỉ ra rành rành. Bà mẹ có đứa con nghiện thúc giục ông chồng tham nhũng bằng được, nhằm cố thoả mãn nhu cầu tiêu xài mỗi ngày hàng triệu của con. Hàng ngày, không khó khăn gì lắm mỗi người chúng ta đều tìm ra ngay được những lý do chính đáng để làm bậy và “ giúp “ người khác làm bậy. Bởi lý do đơn giản nhất là: dẫu sao cũng phải sống. 




khi hội nhập trở thành 
công việc hàng ngày 

27-6 
Đường hầm Hải Vân mới khánh thành đã có chuyện. Xe cộ lộn xộn. Người ta mang nguyên cách đi lại nhênh nhang trên những con đường bình thường để vận hành trên một đoạn đường “ siêu hiện đại “. Có cả xe lam dẫn khách đi vào du lịch hồn nhiên vui vẻ như chỗ không người ! 
Có một chi tiết đáng nghĩ: một phần các thiết bị chỉ huy và chiếu sáng không hoạt động bình thường vì các xe của ta thường quá bẩn, mang vào rất nhiều bụi. Đã bắt đầu có tai nạn. Chuyện tưởng là bé song tôi cho rằng đây là một ví dụ về khả năng hội nhập với thế giới của ta: nhu cầu buộc ta phải làm như người ta ở các nước vẫn làm, song thói quen con người lại chưa theo kịp. Chưa hiểu nay mai còn nảy sinh những trục trặc gì? 

29-6
Lâu nay ai cũng tưởng không gì ngon ăn bằng đi lao động hợp tác ở nước ngoài. Hoá ra chúng ta nhầm. Khó xơi lắm ! Báo Tuổi trẻ hôm nay đưa tin: Đại sứ Anh thông báo ngừng vô thời hạn chương trình tiếp nhận lao động thấp của VN sang Anh làm việc. Cái mà chúng ta lạc hậu không phải chỉ là ở trình độ kỹ thuật mà còn là ở cách sống, ở trình độ hiểu về đời sống và mối quan hệ giữa người với người. Và những cái đó có muốn cũng không thể học nhanh, chứ đừng nói lại còn cao ngạo không muốn, và một mực tưởng rằng cái gì của mình cũng oách lắm rồi, không việc gì phải học cả ! 

30-6 
Bóng đá có lẽ là khu vực có tỷ lệ người nước ngoài đến làm việc cao nhất ở nước ta và sự thực là các ngoại binh đó đã có một vai trò rõ rệt, đến mức giờ đây không thể hình dung ra bóng đáng VN mà lại thiếu đi vai trò của họ. Nhưng cùng với những đóng góp cụ thể, chớ nên quên đây là một dịp để qua người mà ta hiểu mình. Chẳng hạn hồi mấy tháng trước báo chí thể thao đã nêu lại nhận xét Kiatisak là một cầu thủ Thái Lan đến đá cho đội Hoàng Anh Gia Lai “ Tôi thấy phần lớn cầu thủ của các bạn không có tính chuyên nghiệp “ ‘ Chẳng ai tự tập thêm “ ” Hầu hết đều không yêu nghề không tôn trọng nghề nghiệp “. Không ai cãi lại những nhận xét chính xác kiểu đó được. Và nếu như đã có người thấy xấu hổ, thì đấy mới thực sự là cái lãi lớn của công cuộc hội nhập ( cố nhiên không chỉ cho bóng đá ).

2-7
Thông qua Ngân hàng thế giới, các tổ chức quốc tế dự định hỗ trợ chương trình “ giáo dục cho mọi người “ ở VN 50 triệu đô la. Tiền sẽ được rót vào việc giúp đữ các học sinh nghèo ở những tỉnh xa trong đó có việc cải tạo trường sở và đổi mới điều kiện học tập.
Bây giờ nghe loại tin này thường tôi mừng thì ít mà e sợ thì nhiều. Tiền của đổ vào nghe thì thích thật, lại là phục vụ người nghèo nhân hậu quá còn gì ! Nhưng với bộ máy như hiện nay, liệu có hiệu quả hay lại “ giả lễ bà chúa mường “ làm ra vài cái dự án nửa mùa, và những cuộc cải cách phất phơ kiểu hàng mã, rồi cuối cùng chỉ béo những người trung gian. 








Tâm lý Ô-sin
4-7
Tại nhiều địa phương, chính người dân xé rào để làm những việc không được pháp luật cho phép. Phá rừng. Đào than thổ phỉ. Lấn chiếm đất công. Thấy chỗ nào nhà nước cần là xoay ra ăn vạ để kiếm khoản đền bù. Lần đầu tiên ở Hà Nội xây hầm cho người đi bộ qua đường ; nhưng trong lúc chưa khánh thành thì hầm bộ hành biến thành nơi tạm trú của mấy gia đình xóm liều. Thả nào các cụ bảo Chưa họp chợ đã họp kẻ cắp.

5-7 
Một câu chuyện khác lâu nay đã có nhiều báo nhắc tới. Đó là chương trình đánh bắt xa bờ ở hàng hàng loạt địa phương bị phá sản ( Nghe đâu số vốn thất thoát lên tới vài trăm tỉ?!). Chúng ta muốn làm chủ biển. Chúng ta muốn vươn ra xa. Những tưởng chỉ vì không có tiền. Hoá ra còn thiếu cả kinh nghiệm và ý chí nữa. 
Nhưng không chỉ liên quan tới chủ đề bất lực, mà vụ đầu tư này lại còn đáng chú ý ở một khía cạnh khác: Nhiều ngư dân đã thừa biết là làm ăn sẽ thất bát nhưng cứ vay. Họ đã tính sẵn là đến lúc cần hoàn lại đồng vốn cho nhà nước thì đánh bài ì. Không cách gì thu hồi vốn thì kệ nhà nước, họ không cần biết.Thậm chí có người nhận tiền xong chỉ đầu tư một phần, còn chủ yếu mang tiền mua sắm tiện nghi tiêu xài qua ngày. 
Đây là một câu tục ngữ mới: người làm sao tao làm vậy; người làm bậy tao cũng làm theo. Trong cái việc vay tiền để làm dự án vừa nói ở trên hình như có chuyện hùa theo nhau thực. Đại khái mọi người nghĩ nhà nước là cái thùng không đáy, ai không biết cách vơ vét người đó thiệt. Thậm chí ở một số nơi chính quyền địa phương còn gia tay giúp cho dân cách làm, để cùng lừa cấp trên và nhởn nhơ coi là thành tích của mình, thế mới là chuyện lạ ! 

7-7
Nếu thời chiến có câu ra ngỡ gặp anh hùng thì nay là ra ngõ gặp “ tiêu cực “, đi đâu cũng thấy nói “ tiêu cực “. Giả dụ trước khi làm đại một chuyện bậy bạ nào đó, người dân cảm thấy còn có chút phân vân, thì họ có thể viện ngay ra bao nhiêu ví dụ về những người cấp trên oai phong hơn họ nói giỏi hơn họ mà lại phá hại kỷ cương vơ vét bằng mấy họ. Muốn đứng đắn song tự trong tâm lý, người ta đã không tìm đâu ra chỗ dựa.

9-7 
Nhà xuất bản Hội nhà văn cho in một cuốn sách mang tên Bến ô-sin trong đó tập hợp các bài báo kể lại những nỗi khổ mà nhiều gia đình đang phải chịu: nạn người giúp việc làm ăn tuỳ tiện rồi vơ véo nhặt nhạnh đủ kiểu. Nhưng nhà văn Lê Minh Khuê còn đi xa hơn. Trên Thể thao& văn hoá tuần trước, nhân trả lời phỏng vấn, chị bảo tâm lý ô sin đang trở thành một nét tâm lý thời đại, nó chi phối cả lối sống liều lĩnh của người dân, lẫn thói mặt dày kiếm chác của các quan chức tham nhũng. Nghe hình như cũng … hơi bị có lý đấy chứ !




Khổ vì chuyện vặt 


11-7
Những cái cửa bản lề lâu ngày không tra dầu, mỗi lần mở cót ca cót két, -- đấy là thứ thanh âm làm nền cho câu chuyện hàng ngày ở nhiều cơ quan. Mặc dầu đã tập cho mình không lấy cái sự cót két ấy làm khó chịu ( có ai để ý đến nó đâu, tự nhiên bộ mặt nhăn nhó của anh đâm ra lố bịch vô duyên ), tuy vậy tôi vẫn thường nhân đó nghĩ rằng hình như nay là cái thời không ai chịu làm việc vặt cả, và đó là cả một nỗi khổ riêng thời ta mới có. Cái túi xách tay còn tốt nguyên, hỏng mất cái khoá nhưng đi chữa lôi thôi lắm, âu là vứt xó cho xong. Con dao dùng lâu ngày không có người mài nên quăng đi luôn. Nhà có hỏng cái cửa hay tắc ổ khoá chỉ nghĩ đến chuyện đi gọi mấy ông thợ đã thấy ngại. Những lỗi typô trên một bản thảo thì nhiều không xuể, tới mức nhiều người chữa mo-rat đành tặc lưỡi, thôi mặc kệ nó.
Sinh thời nhà văn Nguyễn Tuân, tôi nhớ có lần ông gật gù nhận xét với đám lau nhau ở Hội nhà văn chúng tôi: Thời nào người ta càng hay nói chuyện lớn lao thì càng hay làm khổ nhau vì chuyện lặt vặt. 

12-7 
Từ nhiều năm nay nhiều địa phương ở tỉnh Đồng Nai bị bọ đậu đen xâm nhập. Chúng bay hàng đàn thành đám mây đen kịt tiếng phát ra nghe như tiếng trực thăng. Sự có mặt cùng lúc của hàng vạn hàng triệu con cố nhiên gây ra mùi hôi, làm phát sinh các loại dị ứng cũng như nhiều phiền toái khác. Chùa Bửu Lâm ở Long Thành mỗi lần bị bọ xâm nhập phải nghỉ cúng lễ cả tháng. 
Loại tin này có vẻ không quan trọng lắm, nên không mấy báo đưa, nhưng tôi đọc mà thấy rùng mình. Nghe đâu không ít người đã tính tới chuyện bỏ xứ ra đi vì không cách gì trị loại bọ đó cả. 

15-7
Xuất khẩu chè sụt giảm. Ngành giày dép da bị kiện. Con tôm VN gặp vận hạn ( không tìm thấy người mua). Cước vận tải tăng. Giá đường tăng. Ngành điện lực thu không bù chi. Yên Bái 7 người chết vì mưa quá lớn. Thành phố Cà Mâu quanh năm ngập nước... Nhìn vào ngành nào địa phương nào giờ đây cũng thấy chuyện thất thiệt như vậy. Nhưng lạ nhất là có tin, đợt tổ chức tuyển sinh vừa rồi, nhiều trường đại học bị thua lỗ, có trường lỗ hàng trăm triệu. Có gì đâu, nhiều thí sinh đăng ký dự thi nhưng không tới. Trong khi đó thì trường đã chót thuê phòng thi, thuê giám thị đến trông ( giá số thí sinh có mặt đầy đủ thì cũng cân bằng thu chi )… Thế là mất cả vốn lẫn lãi. 

16-7 
Thành phố Huế đã ba lần tổ chức những trại sáng tác điêu khắc và vì có cả người nước ngoài dự nên thường gọi là festival quốc tế. Đã hình thành nên ba vườn tượng có giá trị nghệ thuật cao. Mới đây có tin nhiều tượng đang bị kẻ gian đánh cắp. Mà cách ăn cắp thì cũng rất VN, tức là cả bức tượng bằng đá của người ta rất lớn, chỉ có thêm một khối đồng nho nhỏ là thứ bán được, thế là xoáy luôn, mặc kệ cả khối đá lớn đứng than khóc. 






Đến những đồng tiền 
Âm Phủ cũng giả 

18-7
Nghĩ lại thì thấy thua cuộc như tôi quả cũng đáng. Số là do quá tin ở lý luận, tôi cãi bằng được rằng hàng giả chỉ xuất hiện ở những nền sản xuất nhỏ, và người ta chỉ làm giả những thứ hàng tàng tàng, chứ làm hàng cho thật xịn xem, liệu ai đủ công sức làm giả bao giờ. Nhưng tôi đã nhầm to. Dẫn chứng mới toanh vừa lấy ra từ một tờ báo điện tử: hàng năm, 500. 000 ( tức năm trăm ngàn, tức nửa triệu ) xe Honda giả được bán ra ở các cửa hàng, và tình trạng giả mỗi ngày một tăng. Chỉ có điều chế tài xử phạt ở ta không nghiêm nên hàng giả vẫn cứ lưu hành, và chính chủ cũng phát ngán không muốn đi kiện nữa.

19-7 
Đọc cuốn V iệt sử xứ đàng trong của Phan Khoang tôi nhặt được một chi tiết: Do nhu cầu của thị trường lúc ấy, các chúa Nguyễn phải cho tư nhân đúc tiền kẽm. Tiền kẽm đúc ra lần đầu dày cứng, tiêu dùng rất tiện. Song cũng lập tức có nạn tiền giả. Người ta trộn thêm chì vào. Tiền mỏng có thể bẻ gãy được nên bị người ta chê. Trước một đồng tiền kẽm ngang giá một đồng tiền đồng, sau ba đồng mới ăn một. 

22-7
Trước cảnh mỗi mùa thi đại học cả xã hội rộn rập mất ăn mất ngủ, một anh bạn thạo về giáo dục bảo tôi: ở nhiều nước như T i những ai có bảng điểm cao, tự nhiên sẽ hạn chế được số thí sinh tham dự ngay. Hẳn anh biết bên thuỷ lợi người ta thường phân lũ để khỏi vỡ đê. Kinh nghiệm ấy hoàn toàn có thể áp dụng cho chuyện thi cử. Chỉ có điều muốn thế, việc đánh giá học sinh phải chặt chẽ ngay từ các lớp dưới. Chứ công khai gian lận bằng cách chín mươi chín phần trăm tốt nghiệp, thì đến trời cũng chịu. 

23-7
Hàng hoá giả. Người giả. Giấy tờ giả. Văn bằng giả. Quy hoạch giả. Công ty giả. Kết quả các trận đấu bóng giả. Mà tuổi của các cầu thủ cũng là tuổi giả. Quả thật nghĩ mà sợ, hầu như sự giả đã tràn lan, cái gì người ta cũng làm giả được. 
Hồi còn sống nhà văn Triệu Bôn có lần cười nhạt bảo tôi: “Tôi đã thấy những tờ giấy báo để nguyên đặt giữa xếp tiền âm phủ người ta bán cho mẹ Hằng nhà tôi về đốt ngày giỗ. Tức là có hàng giả của hàng giả. Thế thì ông tính còn cái gì người ta không tính chuyện bịp nữa “.
Nhưng những lần chúng tôi cùng được cười như vậy hơi … bị hiếm. Đã đinh ninh người đang sống lẫn với ma, song người bị lừa thường vẫn bực mình, thậm chí điếng người đau xót. Mà ai cũng vậy thôi, một lần da đến ruột. Thành thử tôi ngờ các thảm cảnh này kéo theo một hiệu ứng phụ, tức là từ đó người ta dễ tặc lưỡi, -- thế thì tội gì mình phải đứng đắn nữa, mình cũng sẽ đi làm hàng giả cho chúng nó chết ! 
Trong hoá học, người ta gọi là phản ứng dây chuyền.



R lưỡi không xương 
nhiều đường lắt léo 
25-7
Tôi xin hết lòng (truyện ngắn của Nguyễn Công Hoan ) kể về một người đàn bà xoen xoét cái miệng thương hại cô gái ốm, và nhận thức đêm trông cô, chỉ vì quá mê bộ tóc của cô bé. Và lấy cớ giúp cho cái đầu cô bé khỏi vướng víu, bà ta đã đang tay cắt trộm mái tóc.
Kết luận, hoá ra ở đời này chẳng có ai tốt với ai cả ! 
Nhưng hôm nay tôi muốn lưu ý một khía cạnh khác: lời nói đã trở thành công cụ cho người ta kiếm ăn, khi đó nó trở nên hàm hồ, tuỳ tiện lăng nhăng không thể tin nổi, một thứ sản phẩm của “ lưỡi không xương nhiều đường lắt léo “ như các cụ xưa vẫn nói. 
Thiên truyện thường trở lại trong đầu tôi khi hàng ngày chứng kiến cảnh người ta lừa nhau trên đầu cầu Chương Dương. Những chiếc xe khách chở người các vùng quê về chưa kịp đỗ đã có hàng loạt xe chờ sẵn. Mỗi hành khách xuống xe lập tức trở thành con mồi để đám xe ôm xô đến tỏ lòng từ thiện. Lời nói bao giờ cũng ngọt xớt. Người ngoài nghe thấy mà rùng mình, sự thực là họ đang lừa nhau để bên này bùi tai thì bên kia chém. Đại khái cũng giống như các chương trình khuyến mãi của các công ty bất chính. Họ lấy ngay tiền người mua hàng để làm phần thưởng. Của người phúc ta. Nói ra rả hàng ngày, mà không ai thấy chướng.

26-7
Có cái ác là nhiều khi biết người ta nói dối đấy mà không sao vạch mặt ra được. Chẳng hạn nhiều khi có việc cần đến một cơ quan thì thấy đập vào mắt tấm bảng viết cẩu thả “ Cơ quan chúng tôi xin được phép nghỉ sáng nay để họp “. Cùng là cán bộ nhà nước cả, nên mặc dầu biết tỏng là nhiều khi người ta chẳng họp hành già cả mà chỉ kéo nhau đi chơi, tôi cũng chẳng giận làm gì. Nhưng đau là đau ở khía cạnh khác: cái sự nói dối trắng trợn. Người ta coi thường và làm hỏng hết công việc của chúng tôi, nhưng lại nhũn nhặn xin phép, ra cái điều sợ chúng tôi lắm. 

28-7
Một lần lẩn mẩn tra từ điển tiếng Việt, tôi bắt gặp đâu đến vài chục từ ghép đi liền với chữ nói, tạm ghi ra như sau: nói bóng nói gió, nói cạnh nói khoé, nói chơi, nói chua, nói cứng, nói dóc, nói dối, nói điêu, nói gần nói xa, nói gở, nói hớt, nói khoác, nói lảng, nói láo, nói leo, nói lửng, nói mát, nói mỉa, nói ngoa, nói ngang, nói phách, nói phét, nói quanh, nói ra nói vào, nói suông, nói thách, nói thánh nói tướng, nói trạng,nói trống không, nói vơ, nói vụng, nói vuốt đuôi … Trong số này, trên chín chục phần trăm là những từ mô tả sự nói với nghĩa xấu. 

30-7
Trên một tờ báo chuyên về văn hoá hôm nay, có thư của một bạn đọc than phiền vì những sự hứa hươu hứa vượn Một bộ phim quảng cáo là phim kinh dị “made in Việt Nam “ và có tới 69 bài viết trên các báo lăng xê, sẽ không bao giờ bấm máy. Một bộ phim khác được giới thiệu là có đến hai diễn viên Hàn quốc tham gia hoá ra … treo đầu dê, bán thịt chó, bởi chẳng có công ty nào của Hàn quốc phối hợp cả. 







sau hư hỏng là vô cảm 
1-8
Một trong những điều lý thú người ta thấy được qua đợt phát hành các cuốn sách Mãi mãi tuổi hai mươi và Nhật ký Đặng Thuỳ Trâm mấy tuần nay: Hoá ra dân mình vẫn ham đọc. Là người đứng tên biên tập cuốn sách thứ hai, nhiều ngày tôi nhận được điện nhờ bảo giùm xem bây giờ mua sách ở chỗ nào. Thay cho cái đĩa, cuốn băng, một số bạn bè tặng nhau sách. Có những đơn đặt hàng từ Mỹ từ Pháp gửi về. Nghe nói đã bắt đầu xuất hiện những cuốn sách in giả, nó là bằng chứng của một mặt hàng trong “ tình trạng cháy chợ “.
Nhưng quan trọng hơn là sau khi đọc sách, nhiều người rung cảm thực sự. Những giọt nước mắt chân tình ứa ra trên những khuôn mặt tưởng đã hoàn toàn lì lợm vì kiếm tiền. Người ta cảm thấy lâu nay mình đã giàu lên và xấu đi bao nhiêu so với cái tuổi trẻ thánh thiện bốn chục năm trước. 

3-8
Trong cơ quan tạp chí Văn nghệ quân đội, anh Xuân Thiều nổi tiếng là một trong người “ giữa đường thấy sự bất bằng mà tha.” Hồi chiến tranh, một cái xe đạp quý lắm. Vậy mà theo Nguyễn Minh Châu kể với tôi thì có lần, thấy người ta đuổi bắt một đứa bé móc túi, Xuân Thiều đang ngồi hàng nước đã đứng lên, lao thẳng chiếc xe đạp vào thằng ăn cắp ấy để chặn hắn lại.
Nhưng cái chuyện này xảy ra với Xuân Thiều hồi đầu chiến tranh, còn thời điểm Nguyễn Minh Châu kể cho tôi nghe là mấy năm 1973-74, tức cuối chiến tranh. Tác giả Dấu chân người lính tỏ ý than phiền mới mấy năm trời mà con người đã xấu đi bao nhiêu, bây giờ không ai làm như Xuân Thiều nữa.
Giá còn sống đến hôm nay, không biết Nguyễn Minh Châu còn bình luận gì thêm?

4-8
Không che giấu nữa mà trên mặt báo bây giờ ngày càng xuất hiện nhiều những tin nói về cảnh ăn chơi truỵ lạc của đám thanh niên lắm tiền. Tôi thường chỉ thắc mắc: sao không có ai đứng ra nghiên cứu xem đám thanh niên lao mình vào ăn chơi đó thường là con cái nhà ai. 
Hỏi vậy bởi theo tôi, những người giàu có do mồ hôi nước mắt mà có, thường sống đúng mức, thậm chí thanh đạm và con cái họ thường ngoan. Nếu tôi không lầm thì ăn chơi xả láng bậc nhất bây giờ là đám con cái các quan chức tham nhũng. Họ ăn cướp quá dễ dàng nên con cái mới phải tìm cách khơi cho tiền của nơi họ khỏi bị ứ đọng. Nói rằng nhiều người “ đi lừa được cả thiên hạ mà không lừa được con cái “ là với nghĩa ấy. 
Âu cũng là niềm an ủi cho những gia đình tử tế. 

6-8 
Hết than phiền vì tình trạng học sinh chán ngán học văn, nay người ta lại chưng ra đủ loại bằng chứng hãi hùng vì tình trạng học sinh dốt sử. Nghĩa là trong các bài thi vào đại học, hàng ngàn học sinh nhận được điểm một điểm hai, thậm chí điểm không.
Tình trạng kém cỏi này nảy sinh do đâu là chuyện báo chí đang bàn. Nhưng chắc chắn đây cũng là một biểu hiện của tình trạng vô cảm. Thứ vô cảm với quá khứ còn nan giải hơn nhiều so với các thứ vô cảm khác. 


Cười và khóc 

8-8
Đưa tin các trường công bố điểm trúng tuyển và kết quả tuyển sinh, có tờ báo giật cái tít đọc lên nghe đau điếng “ Hơn nửa triệu thí sinh đã trượt đại học “.
Chắc là lúc này khối cô cậu khóc đây.
Lại nhớ câu thơ Tàu cổ: “ Khốc như nữ tử vu quy nhật - Tiếu tự văn nhân lạc đệ thì “ ( ai đó đã dịch thoát thành “ Cười như sĩ tử hỏng thi - Khóc như cô gái sắp đi lấy chồng “ ). 
So với người xưa, nỗi cơ cực của đám người “ lỡ hẹn với đời sinh viên “ đời nay nhiều khi còn ê chề hơn. Các ngành đào tạo nghề nghiệp cổ lỗ non yếu. Cơ quan xí nghiệp chỗ nào béo bở đã lấp đầy người. Rồi biết đi đâu xin việc để có thể hoà nhập vào xã hội? Bảo rằng họ đang bị vứt ra lề đường cũng không phải là nói ngoa.

10-8
Khi tôi kể lại nỗi buồn nho nhỏ trước đám sinh viên “ nhỡ tàu “ thì anh M. bạn tôi không giấu được cảm giác buồn cười. Cậu đa sự thật, anh bảo. Có phải hôm nay họ mới biết đâu. Cái chuyện các trường chỉ lấy được độ 40% số dự thi, ngoài ra 60% chắc chắn thuộc khu vực thi trượt, đó là chuyện “bánh đúc bày sàng” mọi người đã biết ngay từ những ngày đổ nhau đi nộp đơn. Rộng ra mà xét, cái việc thanh niên lớn lên không sao tìm được chỗ đứng hợp lý trong xã hội thực tế hàng ngày vẫn đang kéo dài. Bao giờ toàn ngành giáo dục được tổ chức lại, cả xã hội được tổ chức lại, thì cái chuyện cứa vào lòng người như thế này mới hết.
Để giúp tôi hoàn toàn thanh thản, anh khái quát một câu xanh rờn “ thời buổi cảm thương qua rồi “. Các nhân viên y tế nhất định không xử lý các vụ cấp cứu nếu gia đình nạn nhân không đưa tiền. Các giáo viên rút bớt chương trình dạy ở lớp để kéo học sinh đến nhà học thêm. Đấy, với hai nghề nhân đức như nghề y và nghề giáo mà người ta còn cư xử theo nguyên tắc “ tất cả vì tiền “ như thế, nữa là các nghề khác. Tức cũng có nghĩa là loại người mau nước mắt thời nay đã tuyệt chủng, sụt sùi là chuyện cổ lỗ lắm rồi ! 

11-8
Có tin ở TP Hồ Chí Minh, có một cây cầu gọi là cầu chợ Cầu xây mấy năm nay không xong. Dân phản ứng quá, công ty xây cầu phải làm bảng thông báo, ghi rõ lời xin lỗi trước nhân dân. Chỉ có điều sau đó đâu vẫn hoàn đấy, công việc ì ạch đến mức mọi người cảm thấy như mình bị lừa.
Gọi đây là vô trách nhiệm là gian trá cũng được, nhưng tôi thấy nó còn là một chứng minh tuyệt vời cho cái tình trạng cạn kiệt mọi giọt nước mắt thương cảm. Anh M. đã đúng. 

13-8
May quá, sự đời không phải hoàn toàn đáng bi quan như vậy. Một phóng viên trẻ làm bên VTV1 tâm sự với tôi là cô hơi xấu hổ khi khóc sưng cả mắt vì đọc nhiều trang Nhật ký Đặng Thuỳ Trâm. Tôi bảo với cô, bạn ơi không có gì đáng xấu hổ cả, những giọt nước mắt của bạn giúp tôi lấy lại niềm tin ở tuổi trẻ đấy ! Cám ơn bạn ! 


dập dềnh trôi theo làn sóng 

15-8
Cuốn sách ấy bàn tới một vấn đề khá cấp bách: toàn cầu hoá là gì? Chúng ta sẽ sống sao trong thời đại toàn cầu hoá? Để thích ứng với nó chúng ta phải có một nhận thức như thế nào? Phải cái, sách không chỉ có cái tên hơi khó hiểu: Chiếc Lexus và cây ô liu, mà lại quá dày ( trên 700 trang ) và nội dung quá nặng, ngay với một số nhà chuyên môn cũng đã nặng. Giá kể có ai đọc kỹ rồi tóm tắt lại, diễn giải lại cho mọi người thì hay biết mấy. 
Chỉ có điều bây giờ chả ai sẵn lòng làm việc này cả.
Tôi ghi lại một câu được dẫn trong sách: “ Ngày nay không một đất nước nào có thể khoá kín bản thân không tiếp xúc với truyền thông toàn cầu, hoặc những nguồn tin từ bên ngoài. Những khuynh hướng xuất hiện ở một nơi có thể được nhân lên đại trà ở nhiều nơi khác. “

17-8 
Từ tháng 6- 2004, giá xăng đã tăng 7000đ/l, từ tháng 3-05 là 8.800đ và từ 18h chiều nay là 10.000đ/l. Suốt buổi chiều dân Hà Nội đổ đi xếp hàng mua sớm, tránh cho mỗi lít hơn đồng bạc. Nhưng từ mai thì họ sẽ được sống theo mức giá tiêu thụ của thế giới.
Thế là cái điều mà ký giả của báo New York Times ( tác giả cuốn Chiếc Lexus và cây ô liu nói ở trên ) thông báo, đã có ngay minh chứng.

18-8
Giải thích chuyện tăng giá xăng, các cơ quan có trách nhiệm không quên nói ngay là tại xăng trên thị trường thế giới là thế, mình tránh không nổi, và nghe ra ai cũng hiểu. Chỉ đau một nỗi: ở các nước người ta dự đoán được tình hình rồi tìm cách ngăn chặn và giảm khó khăn cho dân, còn ở mình thì nước đến chân mới …đứng nguyên, và hò nhau ráng chịu. Lại nhớ có lần ai đó đã ví nền kinh tế mình như chiếc nút bấc trôi nổi trên thị trường thế giới, và bị chao đảo bởi bất cứ hiện tượng nào. Đã gọi là nút bấc thì lành lặn mãi sao được ! 

20-8
Không kể sản xuất chắc chắn có khó khăn mà đời sống mỗi người dân thường cũng bị ảnh hưởng. Thịt ở các chợ Hà Nội tăng trung bình khoảng 5.000đ một kg. Gửi xe nhiều chỗ đã lên 2.000 đ. Trước sau cái gì cũng lên hết ! Thế nhưng khi tôi tỏ ý lo ngại không biết mai đây ra sao thì một người bạn thuộc dân giáo viên cấp hai đã cho mấy câu ráo hoảnh: 
--- Dào ôi, có mà lo bò trắng răng ! Người ta tăng giá thì mình cũng tăng giá lại. Bà bán phở tăng giá bát phở thì vợ tôi bán thuốc tăng giá thuốc, còn tôi phải quát học phí con các ông các bà cao hơn. Rồi chắc chắn giá mua bằng rởm lớn hơn, tiền chồng cho mỗi vụ chạy quyền chạy chức nhiều hơn. Rồi từ người tham nhũng đến thằng ăn cắp sẽ bớt phân vân khi hành sự. Rồi còn là tiếp tục chặt phá rừng với lại lấn chiếm đất công để kiếm chác. Chả ai chết cả, còn như đất nước có xơ xác hơn, thì đã có cách … cùng nhắm mắt lại, coi như không có, thế là xong chứ gì !


ùn tắc nơi nơi 
ùn tắc hàng ngày 

22-8
Mùa thu năm nay đến rất đúng hẹn. Sáng mồng một tháng bảy âm lịch, bắt đầu thấy se se một thoáng gió lạnh. Nắng ít đi và đã đỡ gay gắt. Trời lúc nào cũng đầy mây. Có cả những cơn mưa lai rai, như trong câu thơ của Nguyễn Du, “ tiết tháng bảy mưa rầm sùi sụt “, lẫn cả những cơn mưa rào theo kiểu mùa hè còn sót lại. Rạng sáng hôm nay mười tám ta thì trời đổ một cơn kinh khủng. Đến thời điểm các viên chức phải tới sở, nhiều quãng đường còn ngập nước. Anh Ân ở cơ quan tôi kể mọi khi đi từ nhà tới sở mất khoảng 25 phút thì hôm nay mất đúng tiếng rưỡi. Là bởi đồng thời với nạn đường ngập là nạn đường tắc, ngoài các quãng đường tắc vốn có là những quãng đường tắc vừa xuất hiện ngay cạnh đường ngập, có kêu giời thì giời cũng chịu. 

23-8
Thật ra không còn đợi đến những cơn mưa lớn, hai chữ ùn tắc mới xuất hiện trong đầu óc mọi người. Mà hàng ngày người ta đã bắt gặp nó nơi nơi. Các giấy tờ khiếu nại ùn tắc ở các bàn giấy. Máy điện thoại của đoàn trưởng các đoàn kiểm tra đất đai ùn tắc vì người gọi đến quá đông. Công việc nào béo bở thì ùn tắc người tới xếp hàng. Thậm chí có một hồi mấy quán phở ngon trên đường Lê Văn Hưu cũng gây ùn tắc vì quan chức các tỉnh về Hà Nội họp rủ nhau đánh xe đến ăn. Vâng thời buổi này, hàng họ đầy ra đấy nhưng kiếm cho được một cửa hàng làm ăn ngon lành cũng khó khăn lắm, có phải chen chúc một chút có gì là đáng ngại ! 

24-8
Nói tiếp chuyện ùn tắc trên phương diện giấy tờ. Nghe nói là mặc lời nhắn nhủ từ cấp trên, có nơi hàng ngàn cuốn sổ đỏ vẫn còn nằm trong tủ các cơ quan công quyền, tại sao? Người ta dự đoán chẳng qua mấy ông cán bộ chỗ ấy tự nhủ chẳng lẽ phát không cho dân, mà mình lại không được sơ múi tí gì? 
Nghĩa là có cái ùn tắc do kém cỏi nhưng có cái ùn tắc do người ta quá thông minh ; có cái ùn tắc định gỡ mà không gỡ nổi, nhưng có cái ùn tắc do người trong cuộc cố tình tạo ra để kiếm chác. 
Nên chú ý là về mặt tâm lý mà xét thì ai cũng thế thôi, trong cảnh ùn tắc có mệt, nhưng ra khỏi thì sướng lắm. Hoặc có khi chỉ nhìn người khác mắc cạn mà mình thong dong đứng ngoài cũng đã thấy sướng. Bà chị họ tôi có lần thật thà kể một câu chuyện nhỏ như sau: trong cảnh thiên hạ đứng chồn chân chờ mua vé, bà nhờ có thằng cháu cầm giấy Uỷ ban ra mua ngay được cái vé ưu tiên ; lúc ấy bất ngờ trong đầu óc bà không khỏi thoáng qua cái ý nghĩ là bến ga phải ùn tắc thế thì thiên hạ mới biết có cháu làm quan sướng như thế nào !

26-8
Nếu đi từ A. đến B theo con đường quen tuy ngắn mà chịu nhiều ùn tắc thì bao giờ tôi cũng tính để chọn cho mình một con đường xa hơn mà đi lại dễ chịu hơn. Đó là nguyên tắc của tôi trong việc đi lại thời nay trên đất Hà Nội. Nhưng thật khốn khổ, những phương án để tôi lựa chọn ngày một ít dần chỉ có những con đường thật đông với những con đường đỡ đông hơn, chứ còn đường vắng thì giờ đây hoàn toàn không có ! 


Chỗ giống nhau 
giữa lúa và...người 

29-8
Theo một số chuyên gia nông nghiệp thì lúa lai tuy cho năng xuất cao song đòi hỏi rất nhiều phân, thuốc trừ sâu. Nó ăn hại đất, làm đất thoái hoá rất nhanh. Và điều quan trọng nhất: nó chỉ cho một thứ gạo loại xoàng, người dân những vùng nghèo cũng không muốn ăn nói chi đến việc xuất cảng ( ở nhiều nước nó được trồng một ít chủ yếu dành cho súc vật ).
Thế nhưng nhiều cấp chính quyền vẫn thích đổ tiền để tăng diện tích lúa lai, tại sao? Tôi dự đoán: lý do duy nhất chính là ở chỗ nó cho năng xuất cao, do đó các ông ấy dễ xập xí xập ngầu, báo cáo lên cấp trên về thành tích của tỉnh mình huyện mình, còn như chất lượng lúa ra sao, các ông ấy giấu biệt. Bảo rằng tư duy chất lượng đang còn khá xa lạ với cách làm ăn của nhiều người, cũng không phải oan.

30-8 
Trở lại với chính tờ báo Nông thôn ngày nay của chúng ta, thì trong số ra ngày hôm nay, tôi thấy có bài nói là các nhà khoa học và cán bộ quản lý nông nghiệp đang còn tranh luận về cả mặt lợi lẫn mặt hại của lúa lai. Là người ngoại đạo, tôi không có lý gì để tham gia thêm, song bằng vào kinh nghiệm trong nhiều chuyện làm ăn khác, thấy cái sự sợ cho sự phát triển của lúa lai có vẻ dễ nghe hơn. 

1-9
Đi sâu vào “ cái tổ con tò vò “, lại có người cho báo chí biết, còn một lý do nữa khiến lúa lai phát triển. Đây là giống ta chưa làm ra được mà phải nhập từ Trung quốc. Các công ty chuyên doanh về giống rất thích việc nhập này. Trước tiên, họ nhờ bên xuất hàng ghi hoá đơn đội giá lên cao để về kiếm chác chia nhau cái đã. Thứ hai, về nước, họ muốn quát giá nào các tỉnh cũng chịu, vì chỉ có họ được độc quyền cung cấp, và nếu tỉnh nào ngần ngừ một chút thì họ có tiền lót tay cho các quan chức, thế là xong ngay tắp lự.
Câu chuyện này tôi mới nghe một vài người nói, còn chờ xác minh, nhưng trong bụng nghĩ nếu đúng như thế cũng không có gì là lạ. Chuyện xảy ra ở nhiều ngành khác rồi mà,lẽ nào ngành nông nghiệp lại là ngoại lệ. Cái sự kiếm ăn thời nay, không cần ai dạy, người ta học nhau nhanh lắm !

3-9
Thú thực, câu chuyện lúa lai sở dĩ hấp dẫn với tôi, cái chính là vì những đặc tính của giống lúa ấy rất giống đặc tính của một loại người lâu nay được đào tạo. Loại người này bề ngoài có vẻ được việc, đáp ứng được nhu cầu về số lượng, nhưng nhìn kỹ thì “ ăn tàn phá hại “ và chỉ tạo ra những sản phẩm hạng nhì hạng ba gì đấy. Chắc chắn họ không thuộc về tương lai. Nhưng hiện tại họ có đáp ứng được một ít nhu cầu nào đó, nên được tin dùng, thế mới chết !
Lại sắp đến ngày khai giảng năm học mới, lòng chợt nhói lên cái ý nghĩ chẳng phải là “loại người lúa lai “ đó đang được các trường sản xuất hàng loạt và tính rộng ra đó mới là một quả đắng không bao giờ tiêu hoá nổi. Có đúng thế không, liệu ai là người trả lời câu hỏi ấy cho tôi bây giờ?! 


lịch sử nhàm chán ư? 
Nói gì kỳ vậy ! 

5-9
Trần Khánh Dư thường được biết tới như một trong những công thần trong cuộc kháng chiến chống Nguyên Mông. Có điều ông cũng rất giỏi tham lam vơ vét. Khi làm trấn thủ Vân Đồn, tục ở đấy quần áo đồ dùng còn bắt chước người Trung quốc, ông ra lệnh cho quân không được đội các nón kiểu phương bắc mà phải đội nón của một làng gần đấy gọi là nón ma lôi để phân biệt. Nghe thì có vẻ rất nghiêm. Có biết đâu, trước đó ông đã sai người nhà mua sẵn nón về bán, mỗi chiếc giá đắt gần bằng một tấm vải, nhờ thế cũng có được một chiến công tưng bừng trên phương diện kiếm lợi riêng.
Câu chuyện trên không thấy ghi trong bộ sử nào, kể cả Việt nam sử lược cũng không, tôi chỉ biết được nhờ mấy hôm nay buồn tình lấy bộ Lịch triều hiến chương loại chí của Phan Huy Chú ra đọc. Đến khi tìm lại Đại việt sử ký toàn thư thì thấy có thêm một chi tiết tương tự: Có lần người dân đã kiện Trần Khánh Dư đến tận triều đình, nhưng ông không sợ mà còn công khai tuyên bố: “ Tướng là chim ưng, dân lính là vịt, dùng vịt để nuôi chim ưng thì có gì là lạ? “ 

7-9
Câu chuyện về Trần Khánh Dư trước tiên mang lại cho tôi một sự an ủi, hoá ra nhiều chuyện đời nay chỉ là phóng chiếu những chuyện đời xưa. 
Đây là cách nói của Nhà triết học B. Russel do giáo sư Hà Văn Tấn trích lại: “ Đọc sử để biết những ngu xuẩn của quá khứ nhờ thế người ta có thể chịu đựng tốt hơn những ngu xuẩn của hiện tại “.

8-9
Câu chuyện về Trần Khánh Dư còn giúp tôi có thể giúp tôi tham gia vào một câu chuyện thời sự. Số là sau khi phát hiện nhiều bài thi vào đại học ăn điểm 1 với điểm 0 trong môn sử thì nhiều tờ báo thường xuyên có bài trao đổi về chuyện “ làm sao để trò ta khỏi chán sử ta?“. Điều kỳ cục là nhận thức về môn sử của một số cây bút tham gia thảo luận. Có người dám viết rằng đã gọi là lịch sử thì bao giờ cũng nhàm chán khô khan, khó hiểu, lặp đi lặp lại. Không ít người tính chuyện tăng tính hấp dẫn của môn sử bằng tranh vẽ với lại phim ảnh, bởi tin rằng chỉ các biện pháp kỹ thuật thật xịn ấy mới cứu cho cái môn học bắt buộc ấy khỏi làm mọi người đỡ ngấy. Nếu chúng ta biết rằng ở các nước lịch sử vẫn được người ta coi là một môn học sinh động và có sức hấp dẫn bậc nhất với học sinh, thì có thể thấy phát sợ vì cái kết quả mà nền giáo dục ở ta để lại trong lòng học sinh ! 

10-9
Một tờ báo hôm nay đăng thư độc giả phát hiện một nhà nghiên cứu văn hoá hàng đầu của ta, khi đi vào lịch sử đã viết nào là Trung quốc không có hương ước chỉ Việt Nam mới có hương ước, đắp đê là chuyện chỉ Việt Nam mới biết làm, tam giáo đồng nguyên là chủ trương độc đáo chỉ riêng Việt Nam mới có. Nghĩa là toàn chuyện sai sự thực 100%. Các bậc trí giả kiến thức đầy mình từng đóng vai hướng dẫn cả một nền nghiên cứu còn viết liều như thế, thì học sinh và nói chung người dân thường làm sao không chán sử cho được? 


cướp công cướp của 

12-9 

Theo Từ điển tiếng Việt của Hoàng Phê thì sát phạt, tức là tranh phần hơn thua một cách quyết liệt. Nếu lần giở tới Đại Nam quốc âm tự vị của Huỳnh Tịnh Của thì sát phạt có nghĩa là độc ác hung dữ khắc bạc.
Xưa nay tôi chỉ nhớ tới từ ấy và những nghĩa ấy khi nghĩ về phạm vi hẹp, ví dụ các con bạc sát phạt nhau. Nhưng giờ đây không hiểu sao cứ cảm thấy cái tinh thần sát phạt ấy có mặt ở khắp nơi. Khi đi đường, khi người ta chen chúc nhau vượt qua một quãng đường hẹp, không khí đã quyết liệt rồi. Trong cuộc kiếm sống hàng ngày, cuộc đua tranh càng mang tính cách một mất một còn, nghĩa là kinh khủng hơn nhiều. 

14-9
Không chỉ chiếm dụng vốn, người ta còn sẵn sàng chiếm dụng của nhau cả tài năng, tên tuổi, kinh nghiệm, uy tín. Trên một số báo Nông thôn ngày nay ra đã khá lâu ( từ 30-4 ) tôi đọc được bài viết kể về một chuyện nhỏ xảy ra ở một vùng quê: một nông dân nghĩ ra việc làm con giống bằng mây tre đan, nhưng bị hàng xóm cướp không: họ cũng làm thứ đó, nhưng làm kém đi, bán rẻ. Được một thời gian, bên Tây họ không mua nữa.
Câu chuyện nhắc tôi tới một ít chuyện xảy ra ở Hà Nội. 
Đường Bà Triệu quãng từ Trần Nhân tông đến Tuệ Tĩnh có đến mấy hàng lạc rang, và hàng nào cũng là bà Vân. Thì ra ban đầu có một bà Vân thật. Chung quanh thấy đắt hàng quá, liền xông vào cướp nghề. Loạn “lạc rang bà Vân “ là vì vậy.
Cũng giống như khách lên Nhật Tân ăn thịt chó có một hồi hoa mắt vì chỗ nào cũng mang tên Anh Tú, đến mức về sau, có nhà phải treo biển “Anh Tú xịn “ mà rồi người ta vẫn nghi ngờ không rõ có đúng xịn thật không, hay là cũng nói xưng xưng lên, để doạ thiên hạ. Bây giờ hạng người nói dối mà không biết ngượng, hạng đó nhiều lắm !

15-9
Lịch triều hiến chương loại chí ( thiên Quốc dụng chí ), từng chép lại một chi tiết: trong trường kỳ lịch sử, ở các tỉnh đồng bằng Bắc bộ đã có tình trạng quy chế luật pháp không rõ, kể cả những luật liên quan đến ruộng đất, đến mức Phan Huy Chú phải dùng đến mấy chữ “ bỏ mặc ruộng cho dân xâm chiếm lẫn nhau “, rồi mạnh ai nấy thắng. 

17-9
“Mỗi khuôn mặt là một kiệt tác của Chúa “, câu nói ấy tôi ghi được từ lời giới thiệu đặt ở đầu một tập ảnh chân dung. Nó giúp tôi tìm thêm cảm hứng trong đời sống hàng ngày. Vào nhiều gia đình, tôi sung sướng ngồi xem những an-bum kỷ niệm. Dừng lại ở các phố huyện, tôi cố thu xếp thời gian ghé lại một hiệu ảnh, để nhận ra một vài gương mặt đặc trưng cho địa phương. Không có tiền mua làm của riêng, nhưng khi vào các hiệu sách các thư viện, có điều kiện tôi đều tìm cách lật qua các bộ ảnh quý, khi do người mình khi do người nước ngoài chụp. Chỉ một lần, tôi chợt nhận ra là khuôn mặt người mình vài chục năm trước bao giờ cũng hiền lành hơn, bình thản hơn, đôn hậu hơn con người bây giờ. Có điều buồn là cái ý nghĩ “ dở hơi “ ấy cứ ăn mãi vào tâm trí, không sao bác bỏ nổi. 








theo sự cuốn hút 
của cái tầm thường
19-9
Tuần qua, báo Nông thôn ngày nay có loạt bài mang tên Nông nghiệp Việt Nam trước thềm hội nhập, mở đầu bằng bài viết về cây chè. Bài báo cho biết chè của ta năng xuất tăng, diện tích cũng tăng. Chỉ phiền một nỗi chất lượng quá tồi. Rút cục không đi ra được với thế giới, hoặc đúng hơn, người ta chỉ mua về để trộn nhằm đỡ chi phí hoặc để bán giảm giá. Nước sản xuất khối lượng chè có cỡ trên thế giới lại đang là nước vô danh về mặt hàng này. Không ai người ta có ý niệm gì về chè Việt Nam cả. 

21-9
Vấn đề của cây chè thật ra cũng là chuyện xảy ra ở nhiều ngành khác. Như là câu chuyện về lúa lai mà tôi đã ghi lại ba tuần trước. Như là nước mắm mà ta bị cướp tên gọi ( Thái Lan cũng sản xuất và gọi bằng tên Việt khi xuất cảng, và họ xuất sang châu Âu đều đều trong khi nước mắm của ta vẫn rất khó khăn khi vượt qua biên giới ). Lại như là chuyện người. Lao động thừa nhưng không ai nhận vì việc nhà cũng không biết làm ; chất lượng học sinh sinh viên mà chúng ta đang đào tạo thì đến cả các cơ quan nhà nước cũng ngán ngẩm lắc đầu, bảo không dùng được. Người tầm thường lại đẻ ra hàng hoá tầm thường, câu chuyện có gì là khó hiểu?

22-9
Nói về việc cây chè kém chất lượng, các nhà chuyên môn đưa ra lý do: Cây bị khai thác đến mức suy kiệt mà không được đầu tư chăm sóc. Hệ thống chế biến chắp vá không theo một quy trình nào...
Nhưng theo tôi cái gốc của vấn đề ở đây là quan niệm của con người: ta không có tầm nhìn xa, không có ý thức về chất lượng. Trong tiêu dùng mà nói chung là trong cuộc sống không có những nhu cầu cao. Không có ao ước vượt lên trên sự tầm thường để đạt tới sự cao sang quý phái, sự hoàn thiện. Đã thế lại không chịu mở to mắt để học hỏi thiên hạ. Bảo làm cũng làm, nhưng bảo phải vắt óc suy nghĩ học hỏi để đạt tới giá trị cao hơn thì sợ hãi lảng tránh rồi cãi chày cãi bửa. Thấy ai xuất sắc hơn mình thì chỉ muốn kéo người ta xuống. Lừa được ai một lần là hý hửng mà quên mất rằng cái người bị lừa ấy bận sau sẽ không mua hàng của mình nữa. 

24-9
Chẳng nói đâu xa, hãy nhìn vào ngành sản xuất văn chương của tôi, ở đây sự tầm thường cũng đang thống trị. Cũng tác phẩm ra ê hề. Cũng giải thưởng nọ giải thưởng kia xanh đỏ loè loẹt. Mà lại cũng sự đi xuống không thể cứu vãn về chất lượng. Sách viết ra để trong nhà xài với nhau đã khó, nói chi tới chuyện đi ra với thế giới. Tức là dù rất muốn dịch của mình mà người ta vẫn không thể dịch, vì không tìm thấy điều gì cần cho người ta cả. Mới đây có người hỏi tôi xem có nhận xét gì về cuốn Từ điển văn học mới được xuất bản, tôi chỉ nói thời buổi này làm được như thế là mừng lắm, không ai làm hơn được ; có điều tuy gọi là từ điển mà dành chỗ quá nhiều cho những tác giả tác phẩm tầm thường, bây giờ thì vênh váo khoe khoang với nhau là chất lượng thế nọ giá trị thế kia, nhưng độ vài chục năm nữa là chắc chẳng còn ai để ý tới ! 


Có phải niềm tin thực sự? 


26-9
Những ngày ngồi ô-tô đi dọc đất nước Malasia, trong đó có việc đi qua nhiều miền quê của xứ sở này, cánh du lịch bụi bọn tôi thỉnh thoảng vẫn bắt gặp những nghĩa trang nho nhỏ. ấn tượng ư, ấn tượng cố nhiên là mạnh mẽ rồi. Nhưng không phải vì những nghĩa trang ấy lộng lẫy xa hoa. Mà ngược lại vì chúng rất đơn giản, tiết kiệm. Nếu so với mức sống của dân người ta thì thật quá ư tiết kiệm, trong khi đó vẫn không làm mất đi vẻ nghiêm trang thành kính là cái không khí mà các nghĩa trang nhất thiết phải có. 
Mấy năm trước, đi xe lửa từ Bắc Kinh về Nam Ninh Trung quốc, cũng nhớ là không có chỗ nào thấy nghĩa trang quá chói lọi nguy nga mà lại lộn xộn đến mức phải kinh ngạc... như của dân mình.
Vâng, sở dĩ chúng tôi để ý chuyện người, cái chính là vì chuyện xứ mình. Dạo này không rõ vì sao, thấy nhiều nơi có phong trào đua nhau xây lăng cho tổ tiên thật to thật đẹp. Trong chiến tranh, Quảng Trị là nơi diễn ra nhiều trận đánh lớn. Nghe nói là tính ra số người nằm dưới đất Quảng Trị còn đông hơn dân số đang sinh sống.Có cái lạ là xứ Quảng Trị đó – một trong những tỉnh nghèo nhất trong cả nước --- cũng chính là nơi có những lăng mộ được xây tốn kém tới cả trăm triệu. 

28-9 
Cái lối săn sóc tới người đã chết theo kiểu như trên thật ra đã có từ lâu. Từ trước 1940, trên báo Ngày nay, nhà văn Thạch Lam đã có lần ghi lại một nhận xét khá sâu sắc của một người nước ngoài. Người này nói rằng dân Việt hình như mải lo cho người chết mà quên cả người sống.
Từ thực tế ngày hôm nay, tôi nghĩ ngược lại: khoe khoang rầm rộ như thế ắt là vì người sống chứ đâu có vì người chết. Một khi đã mang tính cách một sự tô vẽ giả tạo thì nhất thiết sẽ nẩy sinh phản cảm. 

29-9
Vào những dịp tuần rằm mùng một, nhìn cảnh người đi cúng lễ ở các đền chùa, nhiều người thường hay tự hào rằng dân mình có niềm tin ở thế giới bên kia. Với óc hoài nghi sắn có, anh M bạn tôi cãi lại: Anh thử nghĩ xem người nghèo có mấy khi đi đền đi chùa vênh vang như thế? Mà toàn dân có của đấy chứ. Tôi ngờ đến quá nửa trong đó là quan chức tham nhũng với lại cánh buôn gian bán lận, vừa làm vừa sợ tội nên chạy lễ đến đây để hối lộ thần thánh mong gỡ tội. Đâu có đáng gọi là những người có niềm tin thực sự?!

1-10
Có lần đọc báo thấy nói ở một vùng nọ trên Lạng Sơn những người có thế lực rào những khu đất để chờ bán cho người chết. Tức là một hình thức kinh doanh địa ốc xuất hiện, có điều ở đây mặt hàng kinh doanh là nhà cửa cho người chết, tức là lăng mộ. Thế là tự nhiên tôi tìm được ít đồng minh bất ngờ: đám người rào đất kia thật đã nắm được cái xu thế phát triển tâm lý của con người hiện thời. Phú quý sinh lễ nghĩa. Và trong lúc rất thiếu niềm tin thực thụ thì người ta phải vơ quáng vơ quàng lấy những niềm tin giả tạo. Điều kiện duy nhất ở đây: miễn sao không phải riêng mình mà nhiều người khác cũng đang tin vậy. 


Sợ nhất là tự mình phỉnh mình ! 

3-10
Lại có tin cá ba sa của mình bị cấm bán ở nhiều bang của Mỹ. Mà lý do là vì trong cá có thừa kháng sinh không được phép sử dụng. Quả thật, trước kia nghe những tin tức loại này, tôi chỉ coi như chuyện bình thường, làm ăn thì phải cạnh tranh phải gây ra cho người ta khó chịu, rồi người ta phải “ chơi “ lại mình, có gì là lạ. Song đã quá nhiều lần như vậy, khiến lần này đâm ra nghi ngờ: Nay là thời cái gì cũng mang ra công khai cả rồi. Không có lý cá mình
SỐ TRUY CẬP online